Ai là chủ sở hữu đối với đất đai? Người dân hay Nhà nước?
Nội dung chính
Ai là chủ sở hữu đối với đất đai?
Căn cứ theo quy định tại Điều 12 Luật Đất đai 2024:
Sở hữu đất đai
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.
Theo đó, chủ sở hữu đối với đất đai là toàn dân, tuy nhiên được Nhà nước đại diện chủ sở hữu.
Căn cứ theo quy định tại Điều 14 Luật Đất đai 2024:
Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai
Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai theo thẩm quyền quy định của Luật này và luật khác có liên quan thông qua các cơ quan sau đây:
1. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết về đất đai; quyết định quy hoạch sử dụng đất quốc gia; thực hiện quyền giám sát đối với việc quản lý, sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước;
2. Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền thông qua quy hoạch sử dụng đất của địa phương mình trước khi trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; thông qua việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của địa phương theo thẩm quyền; thông qua việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất theo thẩm quyền quy định của Luật này; quyết định bảng giá đất; giám sát việc thi hành pháp luật về đất đai tại địa phương;
3. Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai theo thẩm quyền quy định của Luật này và luật khác có liên quan.
Đất đai thuộc sở hữu của toàn dân, thế nhưng người dân không thể trực tiếp thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với đất đai được bởi “toàn dân” là toàn thể nhân dân Việt Nam chúng ta nên không thể chỉ một người nào đó thực hiện quyền của chủ sở hữu. Chính vì thế, buộc phải đưa về một nhóm cơ quan nào đó (Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp). Đây là cơ quan do người dân bầu lên, do đó, ở một chừng mực nhất định cũng đã thể hiện được quyền làm chủ của người dân (thông qua một cách gián tiếp).
Ai là chủ sở hữu đối với đất đai? (Hình từ Internet)
Chủ thể sử dụng đất được pháp luật quy định như thế nào? Bao gồm những ai?
Theo quy định tại Điều 4 Luật Đất đai 2024:
Người sử dụng đất
Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; đang sử dụng đất ổn định, đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất mà chưa được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; nhận quyền sử dụng đất; thuê lại đất theo quy định của Luật này, bao gồm:
1. Tổ chức trong nước gồm:
a) Cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, đơn vị vũ trang nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ chức khác theo quy định của pháp luật;
b) Tổ chức kinh tế theo quy định của Luật Đầu tư, trừ trường hợp quy định tại khoản 7 Điều này (sau đây gọi là tổ chức kinh tế);
2. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc;
3. Cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam (sau đây gọi là cá nhân);
4. Cộng đồng dân cư;
5. Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện của tổ chức liên chính phủ;
6. Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài;
7. Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy, chủ thể sử dụng đất bao gồm những người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; đang sử dụng đất ổn định, đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận nhưng chưa được cấp; nhận quyền sử dụng đất; hoặc thuê lại đất. Bao gồm:
- Tổ chức trong nước;
- Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc;
- Cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam (sau đây gọi là cá nhân);
- Cộng đồng dân cư;
- Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện của tổ chức liên chính phủ;
- Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài;
- Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Trách nhiệm của Nhà nước đối với người sử dụng đất là gì?
Theo quy định tại Điều 15 Luật Đất đai 2024:
Trách nhiệm của Nhà nước đối với người sử dụng đất
1. Có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp không có đất sản xuất do quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế được đào tạo nghề, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm.
2. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất cho người sử dụng đất khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về đất đai.
3. Thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật cho người có đất thu hồi khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
4. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật cho người sử dụng đất trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, thủ tục hành chính về đất đai, khai thác thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai.
5. Giải quyết tranh chấp đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Như vậy, Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ người mất đất sản xuất nông nghiệp bằng việc đào tạo nghề, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm; cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản khi người sử dụng đất đủ điều kiện; thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất vì lợi ích quốc gia, công cộng hoặc an ninh, quốc phòng. Đồng thời, Nhà nước tuyên truyền, phổ biến chính sách, trợ giúp pháp lý và giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai theo đúng quy định pháp luật.