Cục Nông binh được thành lập thời gian nào? Cục trưởng đầu tiên là ai?
Nội dung chính
Cục Nông binh được thành lập thời gian nào? Cục trưởng đầu tiên là ai?
Vào ngày 23 tháng 8 năm 1956, Bộ Quốc phòng đã ban hành Nghị định 030/NĐ, quyết định thành lập Cục Nông binh (sau đổi tên thành Cục Nông trường Quân đội) với nhiệm vụ tham mưu cho Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trong công tác sản xuất và xây dựng kinh tế. Đại tá Lê Nam Thắng (sau này được thăng cấp Thiếu tướng) là Cục trưởng đầu tiên của Cục Nông binh.
Cục Nông binh, ban đầu thuộc Tổng cục Hậu cần, sau này được đổi tên thành Cục Nông trường Quân đội. Cục có nhiệm vụ quản lý và phát triển các nông trường quân đội, nhằm góp phần tự cung tự cấp lương thực và thực phẩm cho quân đội. Trong những năm đầu thành lập, Cục đã triển khai nhiều dự án nông nghiệp quan trọng.
Bên cạnh đó, Cục Nông binh còn có trách nhiệm hỗ trợ phát triển kinh tế nông thôn, cải thiện đời sống của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ở các khu vực nông trường. Công tác này không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững cho các vùng nông thôn.
Như vậy, Cục Nông binh được thành lập vào ngày 23/8/1956, với Cục trưởng đầu tiên là đồng chí Lê Nam Thắng.
Cục Nông binh được thành lập thời gian nào? Cục trưởng đầu tiên là ai? (Hình từ Internet)
Nhà nước có những chính sách về quốc phòng nào?
Căn cứ vào Điều 4 Luật Quốc phòng 2018, quy định về các chính sách của Nhà nước về quốc phòng như sau:
(1) Củng cố, tăng cường nền quốc phòng toàn dân, sức mạnh quân sự để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
(2) Thực hiện độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời; thực hiện chính sách hòa bình, tự vệ; sử dụng các biện pháp chính đáng, thích hợp để phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mưu và hành vi xâm lược.
(3) Thực hiện đối ngoại quốc phòng phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; phù hợp với Hiến pháp 2013, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
(4) Huy động nguồn lực của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.
(5) Khuyến khích, tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân ủng hộ vật chất, tài chính, tinh thần cho quốc phòng trên nguyên tắc tự nguyện, không trái với pháp luật Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế.
(6) Phát triển khoa học và công nghệ để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, công nghiệp quốc phòng, an ninh đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
(7) Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; có chính sách đặc thù ở khu vực biên giới, hải đảo, vùng chiến lược, trọng điểm, địa bàn xung yếu về quốc phòng.
(8) Nhà nước ghi nhận công lao và khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.