Số lợi bất hợp pháp là gì? Cách xác định số lợi bất hợp pháp đối với hành vi lấn đất, chiếm đất
Nội dung chính
Trong xử phạt hành chính về đất đai thì số lợi bất hợp pháp là gì?
Căn cứ khoản 1 Điều 6 Nghị định 123/2024/NĐ-CP số lợi bất hợp pháp chính là số lợi được tính thành tiền do tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai có được từ việc sử dụng đất sau vi phạm và phải nộp vào ngân sách nhà nước. Số lợi bất hợp pháp này chính là số tiền phải thu được chia đều cho các cá nhân, tổ chức cùng vi phạm nếu hành vi vi phạm do nhiều tổ chức, cá nhân cùng thực hiện trên một thửa đất.
Trong lĩnh vực đất đai, số lợi bất hợp pháp thường xuất phát từ những hành vi vi phạm như lấn chiếm đất công, sử dụng đất sai mục đích, chuyển nhượng đất không hợp pháp hay thậm chí việc xây dựng trái phép trên đất không đủ điều kiện pháp lý. Các hành vi này dẫn đến việc thu lợi từ việc sử dụng đất không đúng quy định của pháp luật, hoặc qua các giao dịch đất đai trái phép.
Số lợi bất hợp pháp không đơn thuần chỉ là những khoản tài sản thu được từ hình vi trái pháp luật, mà đây còn là hệ quả của các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý đất đai. Những hành vi này không chỉ làm tổn hại đến lợi ích công cộng và tài nguyên đất đai mà còn tạo ra những bất công trong xã hội.
Pháp luật quy định rõ ràng, chặt chẽ việc xử lý số lợi bất hợp pháp đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm. Do đó, việc phát hiện và xử lý số lợi bất hợp pháp là cần thiết để bảo vệ trật tự pháp lý, công bằng xã hội, quyền lợi hợp pháp của Nhà nước và cộng đồng.
Số lợi bất hợp pháp là gì? Cách xác định số lợi bất hợp pháp đối với hành vi lấn đất, chiếm đất (Hình từ Internet)
Những hành vi vi phạm hành chính về đất đai nào buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được?
Căn cứ Điều 8, Điều 9, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 17, Điều 18 Nghị định 123/2024/NĐ-CP buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp khi có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai như sau:
- Sử dụng đất trồng lúa sang loại đất khác mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép;
- Sử dụng đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất sang loại đất khác mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép;
- Sử dụng đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, không phải là đất lâm nghiệp sang đất phi nông nghiệp mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép;
- Sử dụng các loại đất khác sang đất chăn nuôi tập trung khi thực hiện dự án chăn nuôi tập trung quy mô lớn mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép;
- Sử dụng đất trong nhóm đất phi nông nghiệp vào mục đích khác mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép;
- Lấn đất hoặc chiếm đất;
- Chuyển quyền, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp bằng quyền sử dụng đất mà không đủ điều kiện theo quy định;
- Chuyển quyền, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp đối với đất không thuộc trường hợp được chuyển quyền, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp theo quy định.
Điều này nhằm bảo vệ trật tự quản lý đất đai, đảm bảo việc sử dụng đất hợp pháp, công bằng và hiệu quả. Bởi đất đai là nguồn tài nguyên quý giá và có vai trò then chốt trong phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Việc yêu cầu nộp lại số lợi bất hợp pháp không chỉ là biện pháp xử lý các hành vi vi phạm pháp luật mà còn góp phần răn đe, ngăn ngừa những hành vi chiếm đoạt, thu lợi bất chính từ tài nguyên đất đai một cách trái phép. Đồng thời, khuyến khích việc tuân thủ các quy định về quy hoạch, sử dụng đất và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Khi số lợi bất hợp pháp được thu hồi, nhà nước có thể sử dụng nguồn tài chính này vào các mục tiêu công cộng như phát triển cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường hoặc thực hiện các dự án nông nghiệp, lâm nghiệp bền vững đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội toàn diện.
Tóm lại, biện pháp này không chỉ giúp duy trì kỷ cương, trật tự trong quản lý đất đai, mà còn góp phần thúc đẩy việc sử dụng đất một cách hợp lý, hiệu quả và bảo vệ tài nguyên đất đai cho thế hệ tương lai.
Cách xác định số lợi bất hợp pháp đối với hành vi lấn đất, chiếm đất
Căn cứ tại điểm b khoản 2 Điều 6 Nghị định 123/2024/NĐ-CP việc xác định số lợi bất hợp pháp đối với từng hành vi vi phạm cụ thể phải căn cứ vào diện tích vi phạm và thời gian vi phạm. Theo đó, đối với hành vi lấn đất hoặc chiếm đất tại Điều 13 Nghị định 123/2024/NĐ-CP số lợi bất hợp pháp được xác định bằng giá trị quyền sử dụng đất của diện tích đất lấn hoặc chiếm, được tính theo công thức sau đây:
Công thức:
Trong đó:
- Diện tích đất và giá đất được xác định tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính;
- Loại đất vi phạm là loại đất sau khi lấn đất hoặc chiếm đất được xác định theo hiện trạng của loại đất đang sử dụng tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính;
- Số năm vi phạm được xác định từ thời điểm lấn đất hoặc chiếm đất đến thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính;
- Trường hợp diện tích đất vi phạm sau khi lấn hoặc chiếm mà chưa có giá đất trong Bảng giá đất thì lấy giá đất tại thửa đất cùng loại đất sau lấn hoặc chiếm ở vị trí gần nhất với diện tích đất vi phạm để xác định số lợi bất hợp pháp;
- Trường hợp lấn đất hoặc chiếm đất chưa sử dụng nhưng chưa sử dụng vào các mục đích có trong Bảng giá đất thì cơ quan, người có thẩm quyền xác định số lợi bất hợp pháp trên cơ sở thực tế vụ việc, chứng cứ, các chứng từ, tài liệu (nếu có).
Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 35 Nghị định 123/2024/NĐ-CP quy định về điều khoản chuyển tiếp như sau:
"Việc xác định nộp số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm đã xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì thời gian xác định số lợi bất hợp pháp phải nộp được tính từ khi Nghị định có quy định hành vi vi phạm phải nộp số lợi bất hợp pháp có hiệu lực thi hành hoặc tính từ ngày xảy ra vi phạm nếu vi phạm xảy ra sau ngày Nghị định xử phạt vi phạm hành chính về đất đai đầu tiên có quy định phải nộp số lợi bất hợp pháp đã có hiệu lực. Việc tính số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm được thực hiện theo Nghị định này."
Theo đó, Nghị định 123/2024/NĐ-CP có hiệu lực ngày 4/10/2024, nếu người đang sử dụng đất có hành vi lấn đất, chiếm đất trước ngày Nghị định 123/2024/NĐ-CP có hiệu lực thì khi xác định nộp số lợi bất hợp pháp có được do hành vi lấn đất, chiếm đất thì thời gian xác định số lợi bất hợp pháp được tính từ ngày 4/10/2024. Tuy nhiên thời gian xác định số lợi bất hợp pháp sẽ tính từ ngày vi phạm nếu hành vi lấn đất, chiếm đất xảy ra sau khi Nghị định này có hiệu lực.
Quy định này giúp áp dụng đồng bộ và hợp lý các biện pháp xử lý vi phạm đất đai, đồng thời tạo ra sự công bằng giữa các trường hợp vi phạm xảy ra trước và sau khi Nghị định 123/2024/NĐ-CP có hiệu lực. Đảm bảo mọi hành vi lấn chiếm đất, sử dụng đất trái phép đều được xử lý theo cùng một cơ chế pháp lý rõ ràng. Từ đó, sẽ tạo ra một môi trường pháp lý ổn định, công bằng, thúc đẩy sự tuân thủ pháp luật, đồng thời ngăn ngừa các hành vi vi phạm về đất đai trong tương lai.