Tổng thống Mỹ nào đã khởi đầu cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam từ năm 1954?
Nội dung chính
Tổng thống Mỹ nào đã khởi đầu cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam từ năm 1954?
Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower là người khởi đầu cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam từ năm 1954. Sau Hiệp định Giơnevơ, chính quyền Eisenhower không chấp nhận việc Việt Nam tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước như quy định trong hiệp định. Thay vào đó, ông bắt đầu thực hiện chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản (Containment) tại Đông Nam Á.
Dưới sự chỉ đạo của Eisenhower, Mỹ đã thay thế Pháp làm lực lượng chính hỗ trợ chính quyền Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam. Ông cung cấp viện trợ tài chính, quân sự và chính trị cho chính quyền Ngô Đình Diệm, với mục tiêu xây dựng miền Nam Việt Nam thành một quốc gia độc lập khỏi miền Bắc và làm "pháo đài" chống cộng trong khu vực.
Các hành động của Eisenhower nhằm khởi đầu cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam bao gồm việc đưa cố vấn quân sự Mỹ vào miền Nam, tài trợ các chiến dịch đàn áp cách mạng và hỗ trợ chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp phong trào cách mạng, đã đặt nền móng là khởi đầu cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam sau đó là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam kéo dài sau này.
Tổng thống Mỹ nào đã khởi đầu cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam từ năm 1954? (Hình từ Internet)
Hành vi xâm lược là gì?
Căn cứ khoản 7 Điều 2 Luật Quốc phòng 2018 quy định như sau:
Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
...
6. Phòng thủ đất nước là tổng thể các hoạt động tổ chức, chuẩn bị và thực hành về chính trị, tinh thần, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, quân sự, an ninh, đối ngoại để bảo vệ Tổ quốc.
7. Xâm lược là hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc bằng cách sử dụng lực lượng vũ trang hoặc cách thức khác trái với pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế.
Theo đó, hành vi xâm lược là hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc bằng cách sử dụng lực lượng vũ trang hoặc cách thức khác trái với pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế.
Chính sách của Nhà nước để đánh bại mọi âm mưu và hành vi xâm lược là gì?
Căn cứ khoản 2 Điều 4 Luật Quốc phòng2018 quy định như sau:
Chính sách của Nhà nước về quốc phòng
1. Củng cố, tăng cường nền quốc phòng toàn dân, sức mạnh quân sự để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
2. Thực hiện độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời; thực hiện chính sách hòa bình, tự vệ; sử dụng các biện pháp chính đáng, thích hợp để phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mưu và hành vi xâm lược.
3. Thực hiện đối ngoại quốc phòng phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
4. Huy động nguồn lực của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.
5. Khuyến khích, tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân ủng hộ vật chất, tài chính, tinh thần cho quốc phòng trên nguyên tắc tự nguyện, không trái với pháp luật Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế.
6. Phát triển khoa học và công nghệ để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, công nghiệp quốc phòng, an ninh đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
7. Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; có chính sách đặc thù ở khu vực biên giới, hải đảo, vùng chiến lược, trọng điểm, địa bàn xung yếu về quốc phòng.
8. Nhà nước ghi nhận công lao và khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.
Như vậy, chính sách của Nhà nước về quốc phòng để đánh bại mọi âm mưu và hành vi xâm lược cụ thể như trên, trong đó có việc thực hiện độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời; thực hiện chính sách hòa bình, tự vệ; sử dụng các biện pháp chính đáng, thích hợp để phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mưu và hành vi xâm lược.