Loading


Quần đảo Hoàng Sa cách đất liền bao nhiêu km từ điểm gần nhất?

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Xuân An Giang
Tham vấn bởi Luật sư Phạm Thanh Hữu
Quần đảo Hoàng Sa cách đất liền bao nhiêu km từ điểm gần nhất? Không xây dựng đảo nhân tạo trên vùng biển Việt Nam trong trường hợp nào?

Nội dung chính

    Quần đảo Hoàng Sa cách đất liền bao nhiêu km từ điểm gần nhất?

    Quần đảo Hoàng Sa, thuộc chủ quyền Việt Nam, nằm ở khu vực Biển Đông, cách đất liền khoảng 315 km (170 hải lý) tính từ thành phố Đà Nẵng. Vị trí này nằm gần trung tâm của Biển Đông, là khu vực có ý nghĩa chiến lược về cả kinh tế lẫn quân sự. Quần đảo bao gồm nhiều đảo, đá, bãi cạn và rạn san hô, trong đó đảo Phú Lâm là đảo lớn nhất.

    Quần đảo Hoàng Sa không chỉ có giá trị địa lý mà còn mang ý nghĩa quan trọng về kinh tế biển, với nguồn tài nguyên phong phú như hải sản và tiềm năng dầu khí. Ngoài ra, khu vực này nằm trên các tuyến hàng hải quốc tế quan trọng, góp phần tăng cường giao thương giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

    Lịch sử ghi nhận, Việt Nam đã quản lý quần đảo Hoàng Sa từ rất sớm, thông qua các hoạt động khai thác tài nguyên, lập đội Hoàng Sa và thực thi chủ quyền liên tục. Tuy nhiên, hiện nay, Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép, gây ra nhiều tranh cãi và căng thẳng trong khu vực.

    Việc bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là ý chí và khát vọng của toàn dân tộc. Quần đảo này mãi là biểu tượng cho tinh thần kiên cường của Việt Nam trong việc giữ vững lãnh thổ.

    Quần đảo Hoàng Sa cách đất liền bao nhiêu km từ điểm gần nhất?

    Quần đảo Hoàng Sa cách đất liền bao nhiêu km từ điểm gần nhất?  (Hình từ Internet)

    Không xây dựng đảo nhân tạo trên vùng biển Việt Nam trong trường hợp nào?

    Căn cứ Điều 34 Luật Biển Việt Nam 2012 quy định như sau:

    Đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển
    1. Đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển bao gồm:
    a) Các giàn khoan trên biển cùng toàn bộ các bộ phận phụ thuộc khác đảm bảo hoạt động bình thường và liên tục của các giàn khoan hoặc các thiết bị chuyên dùng để thăm dò, khai thác và sử dụng biển;
    b) Các loại báo hiệu hàng hải;
    c) Các thiết bị, công trình khác được lắp đặt và sử dụng ở biển.
    2. Nhà nước có quyền tài phán đối với các đảo nhân tạo và thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, bao gồm cả quyền tài phán theo các quy định của pháp luật về hải quan, thuế, y tế, an ninh và xuất nhập cảnh.
    3. Các đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển và các bộ phận kèm theo hoặc phụ thuộc có vành đai an toàn 500 mét tính từ điểm nhô ra xa nhất của đảo, thiết bị, công trình hoặc các bộ phận đó, nhưng không có lãnh hải và các vùng biển riêng.
    4. Không xây dựng đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển cũng như không thiết lập vành đai an toàn xung quanh đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển ở nơi có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
    5. Khi hết hạn sử dụng, thiết bị, công trình trên biển phải được tháo dỡ khỏi vùng biển Việt Nam, trừ trường hợp được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Đối với phần còn lại của thiết bị, công trình trên biển chưa kịp tháo dỡ hoàn toàn vì lý do kỹ thuật hoặc được phép gia hạn thì phải thông báo rõ vị trí, kích thước, hình dạng, độ sâu và phải đặt các tín hiệu, báo hiệu hàng hải và nguy hiểm thích hợp.
    6. Thông tin liên quan tới việc thiết lập đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển, việc thiết lập vành đai an toàn xung quanh và việc tháo dỡ một phần hay toàn bộ thiết bị, công trình trên biển phải được cung cấp chậm nhất trước 15 ngày trước ngày bắt đầu thiết lập hoặc tháo dỡ đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và được thông báo rộng rãi trong nước và quốc tế.

    Theo đó, việc xây dựng đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển không được phép thực hiện trong các trường hợp có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế.

    Trách nhiệm gìn giữ, bảo vệ đảo, quần đảo trên vùng biển Việt Nam ra sao?

    Căn cứ Điều 35 Luật Biển Việt Nam 2012 quy định như sau:

    Gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển
    1. Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ mọi quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan đến việc gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển.
    2. Khi vận chuyển, bốc, dỡ các loại hàng hóa, thiết bị có khả năng gây hại đối với tài nguyên, đời sống của con người và ô nhiễm môi trường biển, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải sử dụng thiết bị và các biện pháp chuyên dụng theo quy định để ngăn ngừa và hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra cho người, tài nguyên và môi trường biển.
    3. Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không được thải, nhận chìm hay chôn lấp các loại chất thải công nghiệp, chất thải hạt nhân hoặc các loại chất thải độc hại khác trong vùng biển Việt Nam.
    4. Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan làm ảnh hưởng đến tài nguyên và môi trường biển trong vùng biển, cảng biển, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam thì bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; nếu gây thiệt hại thì phải làm sạch, khôi phục lại môi trường và bồi thường theo quy định của pháp luật.
    5. Tổ chức, cá nhân hoạt động trên các vùng biển Việt Nam có nghĩa vụ nộp thuế, phí, lệ phí và các khoản đóng góp về bảo vệ môi trường biển theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

    Như vậy, để gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển Việt Nam nói chung cũng như đảo, quần đảo nói riêng cần tuân thủ 05 quy định như trên.

    saved-content
    unsaved-content
    32
    Chủ quản: Công ty TNHH ThuVienNhaDat. Giấy phép số: đang chạy thử nghiệm. Mã số thuế: 0318679464 Địa chỉ trụ sở: Số 15 Đường 32, Khu Vạn Phúc, P. Hiệp Bình Phước, TP. Thủ Đức, TP. HCM, Việt Nam Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ