Trông mặt mà bắt hình dong có phải bồi thường thiệt hại không?
Nội dung chính
Trông mặt mà bắt hình dong được hiểu như thế nào?
Trong cuộc sống, câu tục ngữ “Trông mặt mà bắt hình dong” thường được sử dụng để nói về thói quen đánh giá con người dựa trên vẻ bề ngoài. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, điều này có thể dẫn đến những hệ quả tiêu cực, đặc biệt là việc xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác.
Khi chỉ dựa vào ngoại hình để đưa ra những nhận xét, đánh giá, đôi khi những lời nói hoặc hành động của chúng ta trở nên thiếu chính xác, thậm chí gây tổn thương cho đối phương.
Chẳng hạn, một người có diện mạo giản dị, ăn mặc không cầu kỳ có thể bị nhận xét là nghèo nàn, lôi thôi, trong khi thực tế họ có thể là người giàu có hoặc tài năng.
Ngược lại, người có ngoại hình nổi bật, ăn mặc sang trọng đôi khi bị gán ghép với những định kiến tiêu cực như “hời hợt” hoặc “giả tạo”.
Những nhận định phiến diện này, khi bị nói ra một cách công khai hoặc cố ý mỉa mai, có thể bị xem là hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác.
Hậu quả của việc xúc phạm này không chỉ dừng lại ở sự tổn thương tinh thần mà còn có thể dẫn đến các tranh chấp pháp lý.
Theo pháp luật, danh dự, nhân phẩm là những giá trị được bảo vệ, và bất kỳ hành vi nào làm tổn hại đến chúng đều có thể bị xử lý. Người bị xúc phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần hoặc yêu cầu xử lý theo quy định pháp luật.
Điều này nhấn mạnh rằng việc đánh giá qua vẻ bề ngoài không chỉ đơn thuần là một quan niệm xã hội mà còn tiềm ẩn rủi ro lớn nếu không được thực hiện một cách thận trọng và tôn trọng đối phương.
Trông mặt mà bắt hình dong có phải bồi thường thiệt hại không?
Căn cứ quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
- Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan quy định khác.
- Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
- Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015.
Như vậy, người nào nhìn mặt người khác mà xúc phạm danh dự, nhân phẩm của họ mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp có quy định khác.
Mặt khác, theo quy định Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015 thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm gồm:
- Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
- Thiệt hại khác do luật quy định.
Đồng thời, người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại phát sinh và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.
Do đó, đối với hành vi "trông mặt mà bắt hình dong", nếu hành vi này xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác mà gây thiệt hại thì người thực hiện có thể phải bồi thường thiệt hại.
Xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Người có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với các tội danh sau đây:
(1) Tội làm nhục người khác
Theo Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hành vi xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người khác có thể phải chịu các hình phạt nghiêm khắc. Cụ thể, người phạm tội có thể bị cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ trong thời hạn lên đến 03 năm.
Trong những trường hợp nghiêm trọng hơn, mức phạt tối đa có thể là phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. Bên cạnh đó, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung, bao gồm cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc thực hiện công việc nhất định trong khoảng thời gian từ 01 năm đến 05 năm.
(2) Xúc phạm người khác có thể bị xử lý theo tội vu khống
Theo quy định tại Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hành vi bịa đặt hoặc phát tán những thông tin mà người thực hiện biết rõ là sai sự thật, nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vu khống.
Mức phạt thấp nhất cho tội danh này là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, mức phạt cao nhất có thể lên đến 07 năm tù giam.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc bị cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề, hoặc thực hiện công việc nhất định trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm.
(3) Xúc phạm người khác trong một số trường hợp đặc biệt
- Xúc phạm danh dự, nhân phẩm người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia phiên tòa:
Theo quy định tại Điều 391 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), người nào tại phiên tòa, phiên họp mà thóa mạ, xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của Thẩm phán, Hội thẩm, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.
- Xúc phạm danh dự, nhân phẩm đồng đội trong quá trình công tác:
Căn cứ quy định tại Điều 397 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) người nào trong quan hệ công tác có hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của đồng đội sẽ phải chịu hình phạt cải tạo không giam giữ lên đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng, mức phạt cao nhất có thể là phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.