Loading


Người dân tộc thiểu số thiếu đất nông nghiệp có được Nhà nước hỗ trợ không?

Người dân tộc thiểu số thiếu đất nông nghiệp có được Nhà nước hỗ trợ không? Người dân tộc thiểu số thiếu đất nông nghiệp có được thế chấp đất được nhà nước giao không?

Nội dung chính

    Người dân tộc thiểu số thiếu đất nông nghiệp có được Nhà nước hỗ trợ không?

    Theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 4 Nghị định 05/2011/NĐ-CP (được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 1 Nghị định 127/2024/NĐ-CP), dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

    Vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng được định nghĩa là địa bàn cấp tỉnh, huyện, xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ổn định; thôn, bản, làng, phum, sóc, xóm, ấp và tương đương (sau đây gọi chung là thôn) có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ổn định thành cộng đồng.

    Căn cứ khoản 3 Điều 16 Luật Đất đai 2024, Nhà nước có chính sách hỗ trợ đất đai để bảo đảm ổn định cuộc sống cho cá nhân là người dân tộc thiểu số thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng nay không còn đất hoặc thiếu đất so với hạn mức.

    Cụ thể, trường hợp thiếu đất nông nghiệp thì được giao tiếp đất nông nghiệp trong hạn mức không thu tiền hoặc cho thuê đất phi nông nghiệp không phải là đất ở để sản xuất, kinh doanh và được miễn, giảm tiền thuê đất.

    Đồng thời theo điểm b khoản 1 Điều 8 Nghị định 102/2024/NĐ-CP cũng quy định rõ trường hợp diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng không đủ 50% diện tích đất so với hạn mức giao đất nông nghiệp của địa phương thì được giao tiếp đất nông nghiệp trong hạn mức.

    Lưu ý: Chính sách hỗ trợ đất đai phải phù hợp với phong tục, tập quán, tín ngưỡng, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng để bảo đảm ổn định cuộc sống.

    Người dân tộc thiểu số thiếu đất nông nghiệp có được Nhà nước hỗ trợ không? (Hình từ Internet)

    Người dân tộc thiểu số được giao đất khi thiếu đất nông nghiệp mà chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì có bị phạt?

    Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 Nghị định 123/2024/NĐ-CP quy định như sau:

    Chuyển quyền, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp bằng quyền sử dụng đất mà không đủ điều kiện theo quy định
    ...
    2. Hành vi cá nhân là người dân tộc thiểu số được Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo quy định tại khoản 3 Điều 16 của Luật Đất đai (trừ trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 48 Luật Đất đai) mà chuyển nhượng, góp vốn, tặng cho, thừa kế quyền sử dụng đất thì phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
    ...

    Theo đó, cá nhân là người dân tộc thiểu số được giao đất khi thiếu đất nông nghiệp theo trường hợp đã được phân tích trước đó mà chuyển nhượng quyền sử dụng đất (trừ trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 48 Luật Đất đai 2024) thì phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

    Ngoài ra, theo khoản 4 Điều 17 Nghị định 123/2024/NĐ-CP, người dân tộc thiểu số chuyển nhượng quyền sử dụng đất trái quy định phải nộp lại số lợi ích bất hợp pháp có được.

    Bên nhận chuyển quyền sử dụng đất buộc phải trả lại đất cho người dân tộc thiểu số chuyển nhượng trái quy định.

    Người dân tộc thiểu số được giao đất khi thiếu đất nông nghiệp có được thế chấp đất này không?

    Căn cứ khoản 2 Điều 48 Luật Đất đai 2024 quy định về trường hợp thực hiện quyền sử dụng đất có điều kiện như sau:

    Trường hợp thực hiện quyền sử dụng đất có điều kiện
    ...
    2. Cá nhân là người dân tộc thiểu số được Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo quy định tại khoản 3 Điều 16 của Luật này thì được thế chấp quyền sử dụng đất tại ngân hàng chính sách.
    ...
    Theo đó, cá nhân là người dân tộc thiểu số được Nhà nước giao đất khi thiếu đất nông nghiệp theo trường hợp đã phân tích trước đó thì vẫn được thế chấp quyền sử dụng đất nhưng chỉ có thể thế chấp tại ngân hàng chính sách.
    saved-content
    unsaved-content
    18
    Chủ quản: Công ty TNHH ThuVienNhaDat. Giấy phép số: đang chạy thử nghiệm. Mã số thuế: 0318679464 Địa chỉ trụ sở: Số 15 Đường 32, Khu Vạn Phúc, P. Hiệp Bình Phước, TP. Thủ Đức, TP. HCM, Việt Nam Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ