Loading


Người sử dụng đất có bị thu hồi đất nếu giảm nhu cầu sử dụng?

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Bảo Anh Thư
Tham vấn bởi Luật sư Nguyễn Thụy Hân
Người sử dụng đất có bị thu hồi đất nếu giảm nhu cầu sử dụng? Người sử dụng đất bị thu hồi đất do giảm nhu cầu sử dụng có được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất không?

Nội dung chính

    Người sử dụng đất có bị thu hồi đất nếu giảm nhu cầu sử dụng?

    Căn cứ khoản 2 Điều 82 Luật Đất đai 2024 quy định nếu người sử dụng đất giảm nhu cầu sử dụng và có đơn tự nguyện trả lại đất thì Nhà nước sẽ thu hồi đất.

    Bên cạnh đó, tại khoản 5 Điều 82 Luật Đất đai 2024 thì việc thu hồi đất do giảm nhu cầu sử dựng đất phải dựa trên văn bản trả lại đất của người sử dụng đất.

    Theo quy định trên, việc giảm nhu cầu sử dụng đất không đương nhiên bị thu hồi đất. Nhà nước chỉ thu hồi đất do giảm nhu cầu sử dụng nếu người sử dụng đất có văn bản tự nguyên trả lại đất.

    Người sử dụng đất có bị thu hồi đất nếu giảm nhu cầu sử dụng?

    Người sử dụng đất có bị thu hồi đất nếu giảm nhu cầu sử dụng? (Hình từ Internet)

    Thẩm quyền thu hồi đất khi người sử dụng đất giảm nhu cầu sử dụng thuộc về ai?

    Căn cứ Điều 83 Luật Đất đai 2024 quy định về thẩm quyền thu hồi đất đối với người sử dụng đất giảm nhu cầu sử dụng như sau:

    (1) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với người sử dụng đất giảm nhu cầu sử dụng bao gồm:

    - Tổ chức trong nước;

    - Tổ chức tôn giáo;

    - Tổ chức tôn giáo trực thuộc;

    - Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài;

    - Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao;

    - Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

    (2) Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất đối với người sử dụng đất giảm nhu cầu sử dụng bao gồm hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư.

    Kết luận, theo quy định tại Điều 83 Luật Đất đai 2024, thẩm quyền thu hồi đất khi người sử dụng đất giảm nhu cầu sử dụng được phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện. .

    Cụ thể, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền thu hồi đất đối với các tổ chức trong nước, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư.

    Người sử dụng đất bị thu hồi đất do giảm nhu cầu sử dụng có được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất không?

    Căn cứ Điều 101 Luật Đất đai 2024 quy định về các trường hợp không được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm:

    (1) Các trường hợp không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất.

    (2) Đất do cơ quan, tổ chức của Nhà nước quản lý là đất chưa giao, chưa cho thuê hoặc đã được giao đất để quản lý.

    (3) Đất thu hồi trong các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai; thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật và thu hồi đất do người sử dụng đất giảm nhu cầu sử dụng và có đơn tự nguyện trả lại đất.

    (4) Trường hợp không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định Luật Đất đai 2024, trừ trường hợp bồi thường về đất Đối với đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.

    Như vậy, người sử dụng đất bị thu hồi đất do giảm nhu cầu sử dụng và có đơn tự nguyện trả lại đất sẽ không được bồi thường về đất. Điều này có nghĩa là khi Nhà nước thu hồi đất trong trường hợp giảm nhu cầu sử dụng và người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất, họ không nhận được bồi thường về đất.

    saved-content
    unsaved-content
    18
    Chủ quản: Công ty TNHH ThuVienNhaDat. Giấy phép số: đang chạy thử nghiệm. Mã số thuế: 0318679464 Địa chỉ trụ sở: Số 15 Đường 32, Khu Vạn Phúc, P. Hiệp Bình Phước, TP. Thủ Đức, TP. HCM, Việt Nam Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ